CHUYÊN ĐỀ

LỰA CHỌN NHÓM THUỐC ỨC CHẾ SGLT2 TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2 LỢI ÍCH VÀ NGUY CƠ

 

Đái tháo đường (ĐTĐ) là một bệnh mãn tính, chuyển hóa, đặc trưng bởi lượng đường trong máu (hoặc đường huyết) tăng cao, theo thời gian dẫn đến tổn thương nghiêm trọng cho tim, mạch máu, mắt, thận và dây thần kinh. Phổ biến nhất là bệnh đái tháo đường típ 2, thường ở người lớn, xảy ra khi cơ thể trở nên đề kháng với insulin hoặc không tạo đủ insulin. Trong ba thập kỷ qua, tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường típ 2 đã tăng đáng kể ở các quốc gia thuộc mọi mức thu nhập. Đối với những người sống chung với bệnh đái tháo đường, tiếp cận với phương pháp điều trị giá cả phải chăng, bao gồm cả insulin, là rất quan trọng đối với sự sống còn của họ.

Trên thế giới có khoảng 422 triệu người mắc bệnh đái tháo đường, phần lớn sống ở các nước có thu nhập thấp và trung bình và 1,5 triệu ca tử vong trực tiếp do bệnh đái tháo đường mỗi năm. Số trường hợp mắc và tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường đều tăng đều đặn trong vài thập kỷ qua.

Ở Việt Nam, năm 1990 của thế kỷ trước, tỷ lệ bệnh ĐTĐ chỉ là 1,1% (ở thành phố Hà Nội), 2,52% (ở thành phố Hồ Chí Minh), 0,96% (ở thành phố Huế), thì nghiên cứu năm 2012 của Bệnh viện Nội tiết Trung ương cho thấy: tỷ lệ hiện mắc đái tháo đường trên toàn quốc ở người trưởng thành là 5,42%, tỷ lệ đái tháo đường chưa được chẩn đoán trong cộng đồng là 63,6%. Tỷ lệ rối loạn dung nạp glucose là 7,3%, rối loạn glucose huyết lúc đói 1,9% (toàn quốc năm 2003). Theo kết quả điều tra STEPwise về các yếu tố nguy cơ của bệnh không lây nhiễm do Bộ Y tế thực hiện năm 2015, ở nhóm tuổi từ 18-69, cho thấy tỷ lệ ĐTĐ toàn quốc là 4,1%, tiền ĐTĐ là 3,6%, trong đó tỷ lệ ĐTĐ được chẩn đoán là 31,1%, tỷ lệ ĐTĐ chưa được chẩn đoán là 69,9%. Trong số những người được chẩn đoán, tỷ lệ ĐTĐ được quản lý tại cơ sở y tế: 28,9%, tỷ lệ ĐTĐ chưa được quản lý: 71,1%. Dữ liệu cập nhật của Liên đoàn Đái tháo đường Quốc tế (IDF) cho thấy năm 2019 Việt Nam có tỷ lệ 6% người trưởng thành mắc ĐTĐ.

Việc điều trị đái tháo đường típ 2 đã và đang đạt được nhiều thành tựu đáng kinh ngạc trong hơn nhiều thập kỷ qua. Một trong những nhóm thuốc điều trị đái tháo đường mới nhất hiện nay là nhóm thuốc ức chế kênh đồng vận chuyển Sodium – Glucose 2 (gọi là nhóm ức chế SGLT-2). Đây là nhóm thuốc có cơ chế tác dụng độc đáo với tác động chuyên biệt trên thận. Ngoài hiệu quả kiểm soát đường huyết, thuốc còn có tác dụng giảm huyết áp, giảm cân cùng với lợi ích trên tim mạch, thận và nguy cơ hạ đường huyết thấp. Tuy nhiên, việc dùng thuốc nên theo dõi chặt chẽ vì một số tác dụng phụ như nhiễm trùng niệu dục, giảm thể tích tuần hoàn, tăng LDL, hoại tử Fournier, nhiễm toan ceton và gãy xương gần đây được ghi nhận.

  1. Phân loại đái tháo đường

Bệnh đái tháo đường được phân thành 4 loại chính

a) Đái tháo đường típ 1 (do phá hủy tế bào beta tụy, dẫn đến thiếu insulin tuyệt đối).

b) Đái tháo đường típ 2 (do giảm chức năng của tế bào beta tụy tiến triển trên nền tảng đề kháng insulin).

c) Đái tháo đường thai kỳ (là ĐTĐ được chẩn đoán trong 3 tháng giữa hoặc 3 tháng cuối của thai kỳ và không có bằng chứng về ĐTĐ típ 1, típ 2 trước đó).

d) Các loại ĐTĐ đặc biệt do các nguyên nhân khác, như ĐTĐ sơ sinh hoặc đái tháo đường do sử dụng thuốc và hoá chất như sử dụng glucocorticoid, điều trị HIV/AIDS hoặc sau cấy ghép mô…

  1. Đái tháo đường típ 2

Đái tháo đường típ 2 trước kia được gọi là ĐTĐ của người lớn tuổi hay ĐTĐ không phụ thuộc insulin, chiếm 90-95% các trường hợp ĐTĐ. Thể bệnh này bao gồm những người có thiếu insulin tương đối cùng với đề kháng insulin. Ít nhất ở giai đoạn đầu hoặc có khi suốt cuộc sống BN ĐTĐ típ 2 không cần insulin để sống sót. Có nhiều nguyên nhân của ĐTĐ típ 2 nhưng không có một nguyên nhân chuyên biệt nào. BN không có sự phá hủy tế bào beta do tự miễn, không có kháng thể tự miễn trong máu. Đa số BN có béo phì hoặc thừa cân và/hoặc béo phì vùng bụng với vòng eo to. Béo phì nhất là béo phì vùng bụng có liên quan với tăng acid béo trong máu, mô m cũng tiết ra một số hormon làm giảm tác dụng của insulin ở các cơ quan đích như gan, tế bào mỡ, tế bào cơ (đề kháng insulin tại các cơ quan đích). Do tình trạng đề kháng insulin, ở giai đoạn đầu tế bào beta bù trừ và tăng tiết insulin trong máu, nếu tình trạng đề kháng insulin kéo dài hoặc nặng dần, tế bào beta sẽ không tiết đủ insulin và ĐTĐ típ 2 lâm sàng sẽ xuất hiện. Tình trạng đề kháng insulin có thể cải thiện khi giảm cân, hoặc dùng một số thuốc nhưng không bao giờ hoàn toàn trở lại bình thường.

  1. Các loại thuốc điều trị ĐTĐ
  • Thuốc uống: Metformin, Sulfonylurea, ức chế enzym alpha glucosidase, ức chế kênh SGLT2, ức chế enzym DPP- 4, TZD (Pioglitazon).
  • Thuốc tiêm: Insulin, đồng vận thụ thể GLP-1.
  1. Lựa chọn thuốc kiểm soát đường huyết cho người bệnh đái tháo đường típ

 

 Khuyến cáo về liều dùng đối với từng thuốc; tham khảo trong tờ hướng dẫn sử dụng của nhà sản xuất

+FDA chấp thuận đối với lợi ích trên tim mạch

#FDA chấp thuận chỉ định cho suy tim

VFDA chấp thuận chỉ định cho bệnh thận mạn

 

  1. Thuốc ức chế kênh đồng vận chuyển Natri-glucose SGLT2 (Sodium Glucose Transporter 2)

Glucose được lọc qua cầu thận sau đó được tái hấp thu chủ yếu ở ống thận gần dưới tác dụng của kênh đồng vận chuyển Natri-glucose (Sodium Glucose CoTransporters (SGlT). SGLT2 giúp tái hấp thu khoảng 90% glucose lọc qua cầu thận, do đó ức chế tác dụng kênh này ở BN ĐTĐ típ 2 sẽ làm tăng thải glucose qua đường tiểu và giúp giảm glucose huyết. Thuốc có cơ chế tác dụng hoàn toàn mới so với các thuốc hạ đường huyết trước đây là tăng thải đường qua thận và hoàn toàn độc lập với insulin nên có thể:

    • Kiểm soát đường huyết hiệu quả và lâu dài ở mọi giai đoạn của bệnh ĐTĐ típ 2.
    • Phối hợp lý tưởng với các thuốc điều trị ĐTĐ có cơ chế phụ thuộc insulin, để giúp kiểm soát đường huyết cho BN tốt hơn
    • Khi phối hợp cùng với Insulin có tác dụng làm giảm liều insulin
    • Ổn định đường huyết trước ăn và sau ăn sớm, chỉ sau một tuần điều trị
    • Không gây hạ đường huyết
    • Kiểm soát các yếu tố nguy cơ tim mạch:
  • Kiểm soát và cải thiện được cân nặng, thuốc gây giảm cân khoảng 3kg (khoảng 3% trọng lượng cơ thể), trong đó chủ yếu là mỡ và mỡ tạng nhiều hơn mỡ dưới da
  • Giảm huyết áp khoảng 2-4 mmHg

Tác dụng phụ chính: nhiễm khuẩn hoặc nhiễm nấm sinh dục, nhiễm toan ceton (hiếm gặp ở ĐTĐ típ 2), nguy cơ giảm thể tích tuần hoàn …

Một số LỢI ÍCH trên lâm sàng

  1. Lợi ích trên tim
  • Bên cạnh tác dụng kiểm soát đường huyết, thuốc còn có tác dụng trên hệ thống tim mạch thận. Các nghiên cứu cho thấy các thuốc nhóm ức chế SGLT2 (canagliflozin, dapagliflozin và empagliflozin) có khả năng làm giảm biến cố tim mạch lớn ở những BN ĐTĐ típ 2 đã có bệnh lý tim mạch do xơ vữa hoặc có nguy cơ tim mạch cao/rất cao. Empagliflozin được chỉ định làm giảm nguy cơ tử vong tim mạch ở BN trưởng thành ĐTĐ típ 2 và có sẵn bệnh lý tim mạch.
  • Tác dụng trên suy tim: Kết quả các thử nghiệm dự hậu tim mạch (CVOTs) ghi nhận các thuốc ức chế SGLT2 ngăn ngừa tái nhập viện do suy tim trên phổ rộng BN ĐTĐ típ 2. Hướng dẫn phòng ngừa bệnh lý tim mạch tiên phát của ACC/AHA cập nhật dữ liệu từ nghiên cứu DECLARE (dapagliflozin) đã khuyến cáo mức độ IIb cho việc sử dụng thuốc Ức chế SGLT2 để dự phòng bệnh lý tim mạch tiên phát ở BN ĐTĐ típ 2 sau khi điều trị với metformin. Đặc biệt nghiên cứu DAPA-HF cho thấy trên nền điều trị chuẩn, dapagliflozin làm giảm tỷ lệ suy tim nặng lên, giảm tử vong do nguyên nhân tim mạch và tử vong do mọi nguyên nhân ở các BN suy tim phân suất tống máu giảm, có hoặc không có mắc kèm ĐTĐ típ 2.
  1. Lợi ích trên thận:

Thuốc ức chế SGLT2 cung cấp khả năng bảo vệ thận ở người Châu Á

Theo một nghiên cứu, việc sử dụng các chất ức chế natri-glucose cotransporter 2 (SGLT2) trong thế giới thực có thể ngăn chặn sự tiến triển của bệnh thận mãn tính (CKD) và sự phát triển của bệnh thận giai đoạn cuối (ESKD) ở một dân số châu Á đa sắc tộc.

Nhóm nghiên cứu do Tiến sĩ Allen Liu đứng đầu cho biết: Thuốc ức chế SGLT2 làm giảm đáng kể nguy cơ mắc các kết quả bất lợi cho thận, bao gồm cả sự suy giảm eGFR, ở những bệnh nhân mắc bệnh thận mạn từ trung bình đến tiến triển (eGFR 15–44 mL/phút/ 1,73 m2), Bệnh viện Khoo Teck Puat, Singapore. Trong khi đó, tác dụng của thuốc ở bệnh nhân CKD sớm (eGFR ≥45 mL/phút /1,73 m2) ít rõ rệt hơn, Liu nói thêm.

Phân tích bao gồm một nhóm thuần tập gồm 4.446 bệnh nhân đái tháo đường típ 2 (ĐTĐ típ 2) (tuổi trung bình 60,6 tuổi, 52,4% nam, 57,7% người Trung Quốc) được khám tại một bệnh viện khu vực ở Singapore. Tổng số 3.220 và 1.226 bệnh nhân bị CKD sớm và trung bình đến tiến triển, trong đó 1.598 (49,6%) và 1.086 (88,6%) đã dùng thuốc ức chế SGLT2. Trong thời gian theo dõi trung bình 1,4 năm, điều trị bằng thuốc ức chế SGLT2 làm giảm đáng kể nguy cơ tiến triển CKD 40–57% trong toàn bộ nhóm (tỷ lệ nguy cơ [HR], 0,60, khoảng tin cậy 95% [CI], 0,49–0,74; p <0,001) cũng như ở giai đoạn đầu CKD (HR, 0,60, 95 % CI, 0,47–0,76; p <0,001) và CKD từ trung bình đến tiến triển (HR, 0,43, 95 phần trăm CI, 0,23–0,66; p <0,001) nhóm con. Nguy cơ phát triển ESKD cũng giảm rõ rệt khi dùng thuốc ức chế SGLT2 cho cả nhóm thuần tập (HR, 0,33, 95 phần trăm CI, 0,17–0,65; p = 0,001) và chỉ phân nhóm CKD từ trung bình đến tiến triển (HR, 0,24, 95 phần trăm CI, 0,09–0,66; p = 0,006).

Liu lưu ý: “Mặc dù cả ba chất ức chế SGLT2 đều làm giảm nguy cơ tiến triển CKD, nhưng empagliflozin có nhiều khả năng giúp tái bảo vệ lâu dài từ sớm đến giai đoạn cuối của CKD.

Cải tạo sức khỏe sâu sắc hơn trong thế giới thực

Kết quả từ thực hành trong thế giới thực cho thấy mức giảm nguy cơ có thể so sánh đối với sự tiến triển của CKD trong các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng với kết quả tổng hợp thận là tiêu chí chính và phụ. Mặt khác, empagliflozin (giúp giảm nhiều hơn) nguy cơ phát triển ESKD, trái ngược với EMPA-REG.     

Hơn nữa, so với các phân tích tổng hợp chứng minh tác dụng giảm độc lực đối với việc tái bảo vệ với suy giảm chức năng thận, nghiên cứu hiện tại cho thấy tác dụng ngược, với việc giảm đáng kể nguy cơ tiến triển CKD và ESKD ở bệnh nhân CKD giai đoạn đầu so với giai đoạn đầu, anh ấy tiếp tục.

Nhóm thuần tập của chúng tôi đến từ một khu vực có một trong những tỷ lệ mắc ESKD thứ phát sau bệnh thận do tiểu đường (DKD) cao nhất. Trong nghiên cứu này; 9,9 % bệnh nhân phát triển ESKD, so với 0,37 phần trăm ở EMPA-REG và 0,2 phần trăm ở CANVAS. Do đó, lợi ích của chất ức chế SGLT2 đối với việc tái bảo vệ có thể sâu sắc hơn trong thực tế thế giới thực khi được kê đơn cho một nhóm dân số DKD phổ biến

Mặc dù có những hạn chế, bao gồm các liều lượng khác nhau của thuốc ức chế SGLT2 được kê cho bệnh nhân khác nhau giữa các nhóm khoa thận và nội tiết và thiếu dữ liệu về các tác dụng phụ liên quan đến điều trị, nghiên cứu thực tế hiện tại là nghiên cứu đầu tiên bao gồm những bệnh nhân có- Liu nói:

Hơn nữa, nghiên cứu này cung cấp một cái nhìn toàn diện hơn về cách các chất ức chế SGLT2 có thể làm giảm gánh nặng bệnh thận trong cộng đồng. Nó cũng cung cấp thông tin quan trọng cho các nhà hoạch định chính sách về việc thực hiện các biện pháp y tế công cộng và bồi hoàn khi sử dụng chất ức chế SGLT2 từ cấp ba đến cấp cứu ban đầu.

Một số NGUY CƠ trên lâm sàng

Nguy cơ nhiễm trùng tiết niệu, nhiễm toan ceton:

Ngày 12/4/2015 FDA sửa đổi nhãn của thuốc ức chế SGLT2 cho bệnh tiểu đường bao gồm cảnh báo về quá nhiều axit trong máu và nhiễm trùng đường tiết niệu nghiêm trọng.

Ngày 29/8/2018 FDA cảnh báo rằng các trường hợp nhiễm trùng hiếm gặp nhưng nghiêm trọng ở bộ phận sinh dục và khu vực xung quanh bộ phận sinh dục đã được báo cáo với nhóm thuốc tiểu đường SGLT2i. Tình trạng nhiễm trùng hiếm gặp nghiêm trọng này, được gọi là bệnh viêm cân hoại tử vùng đáy chậu và bộ phận sinh dục, còn được gọi là chứng hoại thư Fournier.

Ngày 25/2/2016 Cơ quan Dược phẩm Châu Âu (EMA) đã đưa các khuyến nghị để giảm thiểu nguy cơ nhiễm toan ceton do đái tháo đường ở những bệnh nhân dùng thuốc ức chế SGLT2: Bác sĩ nên thận trọng với thuốc ức chế SGLT2 ở những bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ nhiễm toan ceton và thông báo cho bệnh nhân về các yếu tố này: khả năng sản xuất insulin trong tuyến tụy thấp, liều insulin của bệnh nhân giảm đột ngột, tăng nhu cầu insulin (do bệnh tật, phẫu thuật hoặc lạm dụng rượu) hoặc các tình trạng có thể hạn chế lượng thức ăn hoặc dẫn đến mất nước nghiêm trọng.

EMA khuyến cáo tạm thời ngừng thuốc ức chế SGLT2 ở những bệnh nhân đang trải qua cuộc phẫu thuật lớn hoặc đang nằm viện do bệnh nặng.

EMA khuyến cáo thuốc ức chế SGLT2 không được phép dùng cho bệnh tiểu đường loại 1.

Ngày19/3/2020 FDA để giảm nguy cơ phát triển nhiễm toan ceton sau phẫu thuật, FDA khuyến cáo tạm thời ngừng sử dụng thuốc SGLT2i trước khi phẫu thuật. Nên ngừng dùng canagliflozin, dapagliflozin và empagliflozin ít nhất 3 ngày và nên ngừng dùng ertugliflozin ít nhất bốn ngày trước khi phẫu thuật.

Nguy cơ gãy xương: Ngày 10/9/2015 FDA sửa đổi nhãn của thuốc tiểu đường canagliflozin (Invokana, Invokamet) để bao gồm các cập nhật về nguy cơ gãy xương và thông tin mới về giảm mật độ khoáng của xương.

Nguy cơ trên thận: Ngày 14/6/2016 FDA đã tăng cường cảnh báo hiện có về nguy cơ chấn thương thận cấp tính đối với các loại thuốc tiểu đường loại 2 canagliflozin (Invokana, Invokamet) và dapagliflozin (Farxiga, Xigduo XR).

Nguy cơ cắt cụt chi:

Ngày 15/6/2017 FDA xác nhận nguy cơ bị cắt cụt chân và bàn chân tăng lên khi sử dụng thuốc tiểu đường canagliflozin (Invokana, Invokamet, Invokamet XR).

Ngày 24-2-2017 EMA đã thông báo về nguy cơ tiềm ẩn của việc cắt cụt chi dưới (chủ yếu ảnh hưởng đến các ngón chân) ở những bệnh nhân đang dùng các chất ức chế SGLT2 canagliflozin, dapagliflozin và empagliflozin trong bệnh tiểu đường loại 2. Khuyến cáo được đưa ra dựa trên hai thử nghiệm lâm sàng CANVAS và CANVAS-R.

 

Tài liệu tham khảo:

  • Tài liệu tiếng Việt
  1. Bộ Y tế (2020), “Hướng dẫn chuẩn đoán và điều trị đái tháo đường típ 2”
  2. Võ Tuấn Khoa, Nguyễn Thy Khuê (2019), “Vai trò nhóm thuốc ức chế kênh đồng vận chuyển sodium – glucose 2 ở đái tháo đường típ 2: ưu điểm và hạn chế”, Thời sự y học.
  • Tài liệu tiếng Anh
  1. Alan J. Garber, MD, PhD, MACE, et al, (2020), “Consensus Statement By The American Association Of Clinical Endocrinologists And American College Of Endocrinology On The Comprehensive Type 2 Diabetes Management Algorithm – 2020 Executive Summary”, Endocr Pract, 26(No. 1)
  2. Brendon L Neuen, Tamara Young, Hiddo J L Heerspink, et al. (2019), “SGLT2 inhibitors for the prevention of kidney failure in patients with type 2 diabetes: a systematic review and meta-analysis”, Lancet Diabetes Endocrinol, 7(11):845-854. doi: 10.1016/S2213-8587(19)30256-6.
  3. Caiyun Zheng, Meimei Lin, Yan Chen, et al. (2021), “Effects of sodium-glucose cotransporter type 2 inhibitors on cardiovascular, renal, and safety outcomes in patients with cardiovascular disease: a meta-analysis of randomized controlled trials”, Cardiovasc Diabetol, 22;20(1):83. doi: 10.1186/s12933-021-01272-z.
  4. Cosentino, Francesco, Peter J. Grant, et al. (2019), "ESC Guidelines on diabetes, pre-diabetes, and cardiovascular diseases developed in collaboration with the EASD The Task Force for diabetes, pre-diabetes, and cardiovascular diseases of the European Society of Cardiology (ESC) and the European Association for the Study of Diabetes (EASD)." European Heart Journal, 14(2)
  5. Hiddo J.L. Heerspink, Ph.D., Bergur V. Stefánsson, M.D., et al. (2020), “Dapagliflozin in Patients with Chronic Kidney Disease” N Engl J Med, 383:1436-1446, DOI: 10.1056/NEJMoa2024816
  6. Invokana (canagliflozin) prescribing information. Titusville, NJ: Janssen Pharmaceuticals, Inc; 2018.
  7. Jardiance (empagliflozin) prescribing information. Ridgefield, CT: Boehringer Ingelheim Pharmaceuticals, Inc; 2018.
  8. Lippincott Pharmacology Illustrated Review, 6th Edition, 2015.
  9. Matthew C. Riddle, MD. (2022), “Standards of medical care in diabetes”, Diabete Care, 45(1).
  10. John J.V. McMurray, M.D., Scott D. Solomon, M.D., Silvio E. Inzucchi, M.D., et al. (2019), “Dapagliflozin in patients with heart failure and reduced ejection fraction”, N Engl J Med, 381:1995-2008, DOI: 10.1056/NEJMoa1911303
  11. Meg J Jardine, Zien Zhou, Kenneth W Mahaffey, et al. (2020), “Renal, Cardiovascular, and Safety Outcomes of Canagliflozin by Baseline Kidney Function: A Secondary Analysis of the CREDENCE Randomized Trial”, J Am Soc Nephrol, 31(5):1128-1139, doi: 10.1681/ASN.2019111168.
  12. Neal B, Perkovic V, Mahaffey KW, et al. (2017), “Canagliflozin and cardiovascular and renal events in type 2 diabetes” N Engl J Med, 130(2):149-153. doi: 10.1080/00325481.2018.1423852.
  13. Ofri Mosenzon, Stephen D Wiviott, Avivit Cahn, et al. (2019), “Effects of dapagliflozin on development and progression of kidney disease in patients with type 2 diabetes: an analysis from the DECLARE-TIMI 58 randomised trial”, Lancet Diabetes Endocrinol, 7(8):606-617. doi: 10.1016/S2213-8587(19)30180-9.
  14. Perkovic V, Jardine MJ, Neal B, et al. (2019), “Canagliflozin and renal outcomes in type 2 diabetes and nephropathy”. N Engl J Med, 380:2295-2306. DOI: 10.1056/NEJMoa1811744
  15. Takashi Kadowaki, Masaomi Nangaku, Stefan Hantel, et al. (2019), “Empagliflozin and kidney outcomes in Asian patients with type 2 diabetes and established cardiovascular disease: Results from the EMPA-REG OUTCOME ® trial”, J Diabetes Investig, 10(3):760-770, doi: 10.1111/jdi.12971.
  16. Vlado Perkovic, M.B., B.S., Ph.D., Meg J. Jardine, M.B., B.S., Ph.D. et al (2019), “Canagliflozin and Renal Outcomes in Type 2 Diabetes and Nephropathy”, N Engl J Med; 380:2295-2306
  17. Wiviott SD, Raz I, Bonaca MP, et al. (2019), “Dapagliflozin and cardiovascular outcomes in type 2 diabetes”. N Engl J Med, 380:347-357, DOI: 10.1056/NEJMoa1812389
  18. Zinman B, Wanner C, Lachin JM, et al (2015), “Empagliflozin, cardiovascular outcomes, and mortality in type 2 diabetes”, N Engl J Med. 373:2117-2128, DOI: 10.1056/NEJMoa1504720

 

  • Trang Web
  1. https://www.who.int/health-topics/diabetes#tab=tab_1
  2. https://www.fda.gov/

 

Wildcard SSL